Cách thực hiện Phạt_đền_(bóng_đá)

Bình thường

David Villa thực hiện quả phạt đền.

Quả phạt đền phải được thực hiện từ dấu chấm phạt đền cách khung thành 11m. Cầu thủ thực hiện có thể là mọi cầu thủ trong đội bóng được hưởng quả phạt chứ không chỉ riêng cầu thủ bị phạm lỗi và phải được trọng tài xác nhận.

Tất cả các cầu thủ ngoại trừ thủ môn của đội phòng ngự và cầu thủ đá phạt, phải đứng ngoài vòng cấm địa, sau dấu chấm phạt đền và cách dấu chấm phạt đền tối thiểu 9m15 cho tới khi trái bóng được đá. Thủ môn phải giữ vị trí giữa 2 cọc khung thành trên vạch vôi và quay mặt vào trái bóng cho tới khi trái bóng được đá và chỉ có thể di chuyển theo chiều ngang. Nếu thủ môn di chuyển về phía trước trước khi bóng được đá, cú đá sẽ được thực hiện lại nếu bàn thắng chưa được ghi.

Một quả phạt đền sẽ được thực hiện sau tiếng còi của trọng tài và được tính thành bàn thắng khi quả bóng lăn qua vạch vôi trước khung thành.

Bóng nhập cuộc khi được đá và di chuyển, tại thời điểm này, các cầu thủ khác có thể nhập vòng cấm và tiếp tục chơi như bình thường. Hầu hết trường hợp bàn thắng đã được ghi, bóng đã đi hết đường biên ngang hoặc thủ môn đã khống chế được bóng. Đôi khi, bóng được thủ môn đẩy ra hoặc bật xà ngang, cột dọc; nếu điều này xảy ra, bàn thắng tiếp theo nếu có sẽ không được tính là đá phạt đền, mặc dù có thể được ghi từ quả bóng bị bật ra.

Đá phạt đền là một hình thức đá phạt tự do trực tiếp, nghĩa là bàn thắng có thể được ghi trực tiếp từ cú đá phạt. Nếu bàn thắng không được ghi, trận đấu sẽ tiếp tục như bình thường. Cũng như các cú đá tự do khác, người đá phạt không được chạm bóng lần thứ 2 nếu bóng chưa chạm 1 cầu thủ khác ngay cả khi bóng nảy ra từ cọc hoặc xà. Tuy nhiên, đá phạt đền khác đá tự do ở chỗ nếu có các nhân tố bên ngoài tác động, cú đá sẽ được thực hiện lại thay vì như bình thường là trọng tài tung bóng.

Đá phối hợp

Hai cầu thủ có thể phối hợp để thực hiện đá phạt đền, theo đó cầu thủ thứ nhất thay vì đá thẳng vào khung thành chỉ đẩy nhẹ bóng về phía trước và cầu thủ thứ 2 có thể chạy vào đá tiếp để ghi bàn. Giống các cầu thủ khác, cầu thủ thứ 2 cũng phải cách khung thành 9,15m. Chiến thuật này phụ thuộc vào yếu tố ngạc nhiên để cầu thủ thứ 2 có thể đá được bóng trước các cầu thủ của đội phòng ngự. Đá penalty phối hợp được ghi nhận lần đầu tiên được thực hiện bởi Jimmy McIlroy và Danny Blanchflower của đội Northern Ireland đấu với Bồ Đào Nha vào ngày 1 tháng Năm năm 1957. Một lần khác thực hiện bởi Rik Coppens và André Piters trong trận vòng loại Worldcup giữa Bỉ và Iceland ngày 5 tháng Sáu năm 1957. Một lần thử khác thực hiện bởi Mike Trebilcock và John Newman, chơi cho đội Plymouth Argyle năm 1964.[2] Sau nữa, Johan Cruyff thực hiện pha tương tự với người đồng đội Jesper Olsen của đội bóng Ajax năm 1982.[2]